Phú Thọ mấy ngàn năm trước là vùng đất cổ, đất phát tích của dân tộc Việt Nam, nơi Vua Hùng chọn làm kinh đô của nước Văn Lang - nhà nước đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Trên vùng đất cội nguồn giàu đẹp ấy, tổ tiên ta đã trải qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, để lại những truyền thống vô cùng quý giá còn in đậm trong tâm khảm, tính cách của người Phú Thọ hôm nay: giàu sáng tạo trong lao động, giàu lòng nhân ái trong lối sống, giàu khí phách trong đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, giàu tình yêu quê hương, đất nước. Mỗi tên đất, tên làng, tên núi, tên sông ở vùng đất này đều gắn với kỳ tích dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Hát Xoan Phú Thọ - di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại - Ảnh: Nguyễn Thanh Hà
Thời Hùng Vương dựng nước, nước ta có tên gọi Văn Lang gồm 15 bộ tương đương với phạm vi cư trú của 15 bộ lạc người Việt cổ. Trong 15 bộ, bộ Văn Lang là bộ gốc, trung tâm của nhà nước Văn Lang nằm trên hợp lưu của 3 con sông: Thao, Đà, Lô. Lãnh thổ này trải rộng ra 2 phía, bên phải là dãy Ba Vì (Núi Cha), bên trái là dãy Tam Đảo (Núi Mẹ), bao gồm các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, một phần thành phố Hà Nội và các tỉnh Tuyên Quang, Yên Bái ngày nay. Như vậy, ngày nay Phú Thọ nằm ở trung tâm của bộ Văn Lang mà trung tâm chính là thành Phong Châu. Vùng đất Phú Thọ hiện đã trải qua nhiều lần thay đổi cương vực và tên gọi. nhưng khi nói đến Phú Thọ là nói tới truyền thống nguồn cội của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Năm 1968 với phát hiện văn hóa Sơn Vi, các nhà khoa học đã tìm ra hệ thống người Việt cổ cách ngày nay hàng vạn năm. Hàng trăm di tích khảo cổ học thuộc văn hóa Sơn Vi trên các gò, đồi trung du cho thấy người Sơn Vi đã biết chế tác công cụ để phục vụ cuộc sống của mình, điều khác hẳn người vượn chỉ biết dựa vào tự nhiên. Trải qua hàng vạn năm, con người Sơn Vi qua thời đại đá mới đã biết chiếm lĩnh các thung lũng để trồng trọt, tìm kiếm thức ăn, tạo dựng cuộc sống. Đến thời kỳ Hùng Vương, con người bước vào thời đại đồ đồng, biết trồng lúa nước, chế tạo đồ gốm, luyện kim đồng. Hàng trăm di tích được phát hiện tập trung ở Việt Trì, Lâm Thao, Thanh Thuỷ, Thanh Sơn… được phân chia thành các giai đoạn phát triển liên tục. Đó là giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn. Con người thời Hùng Vương đã có những bước tiến vững chắc vào xã hội văn minh trên nền tảng kinh tế nông nghiệp, làm gốm và luyện kim. Thời đại Hùng Vương là thời đại phát triển rực rỡ của đất nước ta, chính vào thời kỳ này, bản sắc văn hóa dân tộc hình thành, tạo cơ sở vững chắc cho sức mạnh nội tại của dân tộc đứng vững trước mọi kẻ thù xâm lược.
Lễ rước voi - Nguồn: bvhttdl.gov.vn
Mùa xuân là mùa bắt đầu của một năm làm ăn lao động sản xuất: gieo hạt , trồng cây, chiết cành, bứng gốc. Tổ tiên ta từ thời Hùng Vương đã lấy việc gieo trồng cây lương thực nuôi sống con người làm công việc đầu xuân. Truyền thuyết vua Hùng trồng kê tra lúa từ thủa bình minh lịch sử kể rằng: “Một hôm, các con gái vua Hùng theo dân đi đánh cá ven sông thấy từng đàn chim bay lượn khắp bãi, nhảy nhót trong đám lau cỏ khiến các nàng vui thích. Có một nàng công chúa mải ngắm đàn chim dừng tay quăng lưới, chợt có con chim thả một bông kê rơi xuống mái tóc. Công chúa mang bông kê về trình với vua cha. Vua Hùng cả mừng cho là điềm lành, vua nói hạt này chim ăn được chắc người cũng ăn được liền bảo các Mị nương ra bãi sông tuốt nốt các bông đó đem về. Tới mùa Xuân, vua đem các hạt ra, phái các công chúa gọi dân đi vãi. Dân vui mừng rước vua ra đồng. Trống mõ đi đầu rồi tới người rước lúa, rước kê. Tới ven sông, vua xuống bãi, lấy que nhọn chọc đất tra lúa và gieo kê. Làm xong, vua lấy cành tre cắm xuống cho chim sợ khỏi ăn hạt. Các Mị nương và dân đều làm theo”. Truyền thuyết này và truyền thuyết vua Hùng dạy dân cấy lúa cho ta một thông điệp rằng, xa xưa, cha ông ta đã biết cách canh tác mới phù hợp với vùng đất đang sống, nền văn minh lúa nước sông Hồng cũng bắt đầu từ đây. Di chỉ Làng Cả (Việt Trì), Đồng Đậu (Yên Lạc - Vĩnh Phúc) với vỏ trấu hóa thạch đã minh chứng nơi đây đã có một nền nông nghiệp trồng lúa nước phát triển. Sách Thuỷ kinh chú cũng đã từng chép việc người Việt cổ làm ăn theo lối “đao canh thủy nấu” (tức là vừa làm ruộng cạn - chọc lỗ tra hạt, vừa làm ruộng nước - cấy lúa). Tục “chọc lỗ tra lúa” và “gieo kê trên bãi ướt” vẫn còn tồn tại ở một số nơi thuộc vùng Lâm Thao. Xã Hợp Hải trước Cách mạng tháng Tám vẫn còn giữ tục tới vụ Xuân chọn ngày lành tháng tốt, ông tiên chỉ làm lễ tế đình xong, nhân dân rước ra đồng cấy, cấy xong mọi người té nhau cho ướt nước và tin như thế mới mùa màng bội thu, nhà nhà no đủ. Tục đó ở Minh Nông được thể hiện rất sinh động trong Lễ hội vua Hùng dạy dân cấy lúa diễn ra vào 15 tháng Giêng. Trong tháng Giêng, tháng đầu của mùa Xuân, trên quê hương đất Tổ có rất nhiều lễ hội truyền thống nối tiếp nhau làm cho không khí đón Xuân khắp các miền quê thêm rộn ràng. Có thể kể ra đây những lễ hội tiêu biểu: lễ hội đền Âu Cơ ở Hiền Lương Hạ Hòa, hội đền Vân Luông Việt Trì, hội rước voi Đào Xá, hội rước ông Khưu, bà Khưu ở Thanh Đình…
Đến làng Trẹo xã Hy Cương, chân núi Nghĩa Lĩnh ta còn chứng kiến nhiều tục hèm đón Xuân, vui Tết rất cổ xưa từ thời Hùng Vương: Chạy địch, Rước tiếng hú. Đặc sắc nhất là lễ hội của làng Cao Mại (nay là thị trấn Hùng Sơn), huyện Lâm Thao. Lễ hội kéo dài từ 30 tháng Chạp đến mồng 8 tháng Giêng với nhiều tích trò độc đáo. Tối 30, gần lúc Giao thừa, ông từ làm lễ từ đình đến cây hương đầu làng, tay cầm con gà trống vái 3 vái. Nghi thức này tượng trưng cho việc Sơn Tinh giả làm tiếng gà gáy để quân lính của vua Hùng tưởng trời sáng ra mở cửa thành cho Sơn Tinh đem lễ vật thách cưới vào dâng lên vua Hùng để đón Ngọc Hoa công chúa. Sau lễ này, ông từ vừa đi vừa hú, dân làng nổi chiêng trống và hú theo. Nghi thức trong lễ rước tiếng hú tượng trưng cho việc Sơn Tinh sang đón Ngọc Hoa thì Thủy Tinh đến, hai bên giao tranh quyết liệt, trong lúc giằng co, Ngọc Hoa cất tiếng hú tìm Sơn Tinh. Trong 3 ngày Tết dân làng vui chơi đón Xuân. Ở Hy Cương, tích Đón Vua về ăn Tết cũng xuất phát từ lễ hội này. Ngày mồng 4 Tết diễn trò “Săn lợn, chạy địch”, diễn lại cảnh săn bắt tập thể dưới thời Hùng Vương. Ngày mồng 5 Tết tổ chức rước voi, ngựa tượng trưng cho việc Sơn Tinh mang gia binh, gia tướng đi đón Ngọc Hoa. Mồng 6 Tết diễn trò múa “Tùng dí”, mỗi làng chọn 3 thanh niên khoẻ mạnh, nhà không có tang, mỗi người cầm một đòn gánh được sơn son, thếp vàng mỗi đầu buộc 2 nắm lúa, 2 nắm xôi gói trong lá dong. Ba chàng trai chạy vòng quanh sân đình, vừa chạy họ vừa reo hò “hú tùng dí, hú tùng dí”, dân làng đứng xung quanh hú theo. Tiếp đó, 3 người vào trong đình đứng trước ban thờ chính vừa múa đòn gánh theo nhịp chiêng trống vừa reo: Hú tùng dí, Hú tùng dí 3 lần thì ông chủ trò nắm lấy xôi, lúa tung cho người dân cướp lấy may để mùa màng năm tới thóc lúa đề đa. Ngày mồng 8 là ngày rước chúa Gái Ngọc Hoa về núi Tản, quê Sơn Tinh. Vì thương cha nhớ mẹ, Ngọc Hoa dùng dằng không muốn đi nên dân làng làm trò “Bách nghệ khôi hài” để mua vui, sau đó Ngọc Hoa tiếp tục về nhà chồng. Ở làng Vân Luông cũng có trò diễn xung quanh chủ đề hôn nhân của Sơn Tinh trong lễ hội ném chài mồng 3 Tết, trò diễn này mô tả theo phong tục cổ xưa ném đất tiễn vợ chồng Sơn Tinh - Ngọc Hoa về núi.
Ở Phú Thọ có nhiều hội đón Xuân, vui Tết của đồng bào dân tộc thiểu số như hội ném còn, chơi đu, hội cồng chiêng của người Mường, Dao, Cao Lan… với nhiều trò chơi hấp dẫn, tạo không khí phấn chấn, rộn ràng khắp bản làng. Vào dịp đầu Xuân, khi hoa đào khoe sắc, đồng bào miền núi vui mừng đón xuân với nhiều hình thức văn nghệ theo phong tục tập quán của mỗi dân tộc. Người Mường ở Thanh Sơn, Tân Sơn, Yên Lập có nhiều hình thức vui chơi như Đu cọn, Séc bùa, Đâm đuống, múa Mỡi, Chàm thau (đánh trống đồng). Mỡi là hình thức văn nghệ độc đáo của người Mường trong dịp Tết đầu năm. Thời gian tổ chức không có ngày cố định. Người Mường ở Yên Lập múa Mỡi vào ngày 4 đến 5; ở Thanh Sơn từ mồng 4 đến mồng 7 tháng Giêng, mỗi cuộc chỉ có 3 ngày, rất ít khi kéo dài hơn. Mỡi chủ yếu là múa roi, múa hương, múa khăn, múa gươm. Nam nữ múa sánh vai nhau, ở các góc nhà các cô gái cầm ống nứa trỗ xuống sàn làm nhịp, gọi là “Tụng ống”, trai gái ngồi quanh nhà hát ví (bỉ) và hò “Anh chị em ơi, reo lên”.
Hội còn tổ chức vào đầu Xuân, người ta chọn một bãi đất rộng, bằng phẳng, trồng một cây tre, trên ngọn treo một vòng tre, dán giấy ở 2 mặt với 2 màu trắng đỏ tượng trưng cho mặt trăng và mặt trời. Quả còn có 2 hình dạng : hình cầu và hình vuông làm bằng vải trong nhồi trấu, mùn cưa, cát để khi tung lên còn “bay” được. Và để định hướng bay cho quả còn, người ta làm đuôi vải cho nó dù là còn vuông hay hình cầu. Tục lệ của người Mường quy định con trai là người ném đầu tiên và khi có ném rách vòng thì trai gái mới được tung còn qua lại. Để khuyến khích nhiều người chơi, bản mường cho treo một ít tiền kẽm trên cột làm phần thưởng. Ở nhiều làng xã khác cũng có hội còn, như ở Tiên Du (Phù Ninh), Bạch Hạc (Việt Trì). Hội hát Xoan cũng có tung đúm, cô đào xoan tung đúm cho trai làng, quả đúm cứ trao đi trao lại hết đôi này đến đôi khác, vừa tung đúm họ vừa hát chúc và hát giao duyên. Về các bản mường còn được thưởng thức những âm thanh rộn rã từ tiếng giã đuống của các bà, các mẹ trong đêm Giao thừa, ngày mồng một, mồng hai Tết, tiếng cồng chiêng của nam nữ thanh niên rủ nhau vào hội Séc bùa. Đồng bào Dao, Mông còn có hình thức đốt pháo bằng ống nứa để tiễn những điều rủi, xua đuổi ma quỷ, đón niềm vui, điều may cho bản làng. Người Mông thì có hội Gầu Tào, Sải Sán. Hội này ngoài vui chơi còn mang ý nghĩa tạ ơn trời đất, cầu phúc trong năm. Trong hội có múa Khèn, thu hút sự chú ý của nhiều người, nhất là thanh niên.
Dù trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, nhân dân các dân tộc vùng đất Tổ luôn phát huy những giá trị tốt đẹp của tổ tiên để lại, họ biết làm giàu thêm truyền thống dựng nước và giữ nước, lấy những nét đặc sắc về lịch sử, văn hóa, con người nơi đây làm bệ đỡ tinh thần, khắc phục mọi khó khăn để vươn tới. Hôm nay Xuân đã về trên mọi nẻo đường, hòa chung niềm vui với nhân dân cả nước, người dân Phú Thọ đang ra sức thi đua góp phần cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của sự vươn dậy khẳng định vị thế, tương lai, tiền đồ tươi sáng của dân tộc.
TRẦN VĂN QUANG
Nguồn: Tạp chí VHNT số 597, tháng 2-2025