Nguyễn Diêu quê ở làng Nhân Ân, xã Phước Thuận, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Ông đậu Tú tài khoa Canh Tân thứ 13 (1860). Là người văn hay chữ tốt, học rộng biết nhiều mà thi mãi không đỗ Cử nhân. Lận đận với khoa cử, ông bước vào nghiên cứu kinh Phật, mở trường dạy học. Môn sinh của ông nhiều người đỗ đạt. Trong đó, có cụ Đào Tấn làm quan đến chức Thượng Thư. Nguyễn Diêu đã để lại nhiều tác phẩm nôm nổi tiếng. Trong đó ông đã viết vở tuồng hát múa bả trạo mà hiện nay hầu hết các lăng Ông Nam Hải đã vận dụng trong hát múa bả trạo tại lễ hội cầu ngư ở các vạn chài ở vùng duyên hải miền Trung…
Thôn Bình Thái xã Phước Thuận – Tuy Phước cách đây hơn 10 thế kỷ vốn là một phần của đầm Thị Nại, do phù sa từ sông Hà Thanh bồi đắp. Núi Xương Cá, lúc còn là một hòn đảo đã từng là bến đậu của các thuyền bè đi lại trên đầm Thị Nại. Bờ đập ngăn mặn Phước Thuận hiện nay dài trên 5 km tiếp giáp với đầm Thị Nại. Đây là đầm nước mặn lớn nhất của tỉnh Bình Định, nơi đã diễn ra hàng chục trận thủy chiến trong suốt nhiều thế kỷ qua (chiều dài của đầm Thị Nai gần 15km theo hướng Nam - Bắc).
Nhờ có đầm lớn, nghề muối và khai thác thủy hải sản đã trở thành thế mạnh. Ngoài đường bộ, Phước Thuận có tuyến đường thủy qua đầm Thị Nại dài 5km nối liền xã với thành phố Quy Nhơn. Đây là con đường chủ yếu dành cho bà con ngư dân các vạn chài ở Phước Thuận giao thương với thành phố Quy Nhơn. Đường sông Hà Thanh về mùa mưa thuyền bè có thể ngược dòng đến bến Trường Úc (Chợ Gò) và đi xa hơn đến thượng nguồn.
Vào nửa sau thế kỷ XI đã có những người Việt đầu tiên đặt chân đến mảnh đất này. Sau năm 1471, số người Việt đến đây ngày một đông hơn. Từ năm 1578 với chính sách chiêu dân lập ấp của chúa Nguyễn, một số ngư dân phía Bắc vào đây khá đông. Bình Thái là một trong những làng vạn chài lâu đời ở Bình Định và có số lượng hộ gia đình tham gia đánh bắt thủy, hải sản khá đông. Đời sống văn hóa ở đây gắn liền với chu kỳ đánh bắt hải sản và các lễ hội diễn ra trong năm như lễ hội Cầu ngư, lễ Ra nghề, lễ Thanh minh…
Đặc biệt thời gian diễn ra lễ hội Cầu ngư. Lăng Ông Nam Hải làng Bình Thái được khởi dựng từ thế kỷ XVII, năm 1786 được trùng tu lần đầu; lần trùng tu gần nhất là vào năm 1987. Làng Diêm Vân nối liền với Bình Thái nhờ cây Cầu được xây dựng trước năm 2000. Bên này là làng Nhân Ân, cũng là địa phương có đội Bả trạo từ lâu đời. Lễ hội cầu ngư lăng Nam Hải làng Bình Thái diễn ra vào ngày 16/2 âm lịch hằng năm.
Năm 2025 có khoảng gần 2/3 dân số của làng Bình Thái làm nghề đánh bắt thủy hải trên đầm Thị Nại. Mỗi khi có cá Ông (cá Voi) chết trôi dạt vào bờ, cũng như các vạn chài khác, bà con ngư dân làng Vạn Thái kính cẩn “Ông lụy – Bà lụy”. Chủ ghe phát hiện đầu tiên được gọi là chủ tế. Được ngư dân tổ chức lễ tang cá Ông như người và cả vạn chài đều chung sức lo liệu. An táng cá Ông xong, ba năm sau thì cải táng, xương được bỏ vào áo quan nhỏ và đưa về thờ tại lăng Ông Nam Hải của làng vạn chài.
Bà con ngư dân Bình Thái duy trì lễ Thanh minh của làng vào dịp tổ chức lễ hội Cầu ngư vào ngày 26/2 âm lịch hằng năm. Cầu ngư là lễ lớn nhất và quan trọng nhất của chù kỳ tiết lễ trong đời sống văn hóa ngư dân vạn chài Bình Thái. Theo thống kê hiện nay, trên địa bàn tỉnh Bình Định có 21 lăng Nam Hải ở một số làng ven biển các huyện Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát, Tuy Phước và thành phố Quy Nhơn là nơi tổ chức nhiều lễ hội Cầu ngư với quy mô lớn, nhỏ. Điểm riêng biệt và thời gian diễn ra lễ hội cũng khác nhau.
Ban đầu, ngày diễn ra lễ hội thường là ngày ông lụy (cá voi chết, dạt vào bờ biển làng chài), dân làng được phúc lành khi tổ chức mai táng, cúng tế cá Ông; rồi kể từ ngày ấy, những năm về sau dần trở thành ngày diễn ra lễ hội Cầu ngư của làng chài. Lễ hội gắn liền với tục thờ cúng cá voi, với nhiều truyền thuyết, nhiều dòng văn hóa còn đậm nét dân gian.
Theo thông lệ lễ hội được diễn ra trong thời gian 3 ngày đêm liền. Ngày đầu tiên diễn ra nghi thức lễ trần thiết bài vị, rồi tiến hành nghi lễ nghinh thần, lễ an thần; ngày thứ hai diễn ra nghi thức đại lễ tế thần. Phần hội gồm có: Hát múa Bả trạo, hội Xây chầu, hát bội, hô Bài chòi và các trò chơi dân gian của ngư dân miền biển, được diễn ra vào ngày thứ ba và có sự đan xen trong thời gian hành lễ ở ngày đầu tiên và ngày thứ hai.
Nét đặc sắc trong lễ hội Cầu ngư là hát múa Bả trạo. Bả trạo như một hoạt cảnh múa hát, thể hiện những sinh hoạt, lao động của ngư dân như: Chèo thuyền, kéo lưới hoặc đặc tả cảnh đưa linh, rước hồn các “Đức ông” cùng những người chết sông, chết biển về nơi yên nghỉ. Kịch bản Bả trạo của mỗi làng chài ở Bình Định hầu như không có sự thay đổi cơ bản như kịch bản múa hát Bả trạo của cụ Tú Diêu (Người thầy của danh nhân văn hóa Đào Tấn) là một trong những kịch bản độc nhất vô nhị ở Việt Nam.
Bả trạo là từ Hán - Việt. Tuy nhiên, lại có khá nhiều cách giải nghĩa khác nhau về ngữ nghĩa của từ này. Theo cuốn Từ điển Hán - Việt của Đào Duy Anh thì bả nghĩa là cầm, nắm; trạo là lay động, chèo đò, đổi chác cho nhau. Ở đây chúng ta thấy hai từ bả và trạo đều có bộ thủ đi kèm, cho nên đây hẳn nhiên là một hành động được điều khiển bằng tay. Trong tập Tín ngưỡng dân gian Huế của tác giả Trần Đại Vinh cũng giải thích: Bả nghĩa là cầm, trạo là chèo. Ca dao Nam Trung Bộ của Thạch Phương – Ngô Quang Hiển thì cho rằng: Bả là nắm chắc, trạo là mái chèo. Tác phẩm Diễn xướng dân gian Việt Nam của Vũ Ngọc Khánh - Phạm Minh Thảo thì giải thích: Bả có nghĩa là bẻ, chèo, còn trạo là thuyền …
Trong đời sống tâm linh của ngư dân vùng biển miền Trung nói chung còn gọi là hò Đưa linh, chèo Cầu ngư - một loại hình nghệ thuật dân gian mang tính nghi lễ gắn với việc tổ chức lễ tang hoặc thỉnh ngọc cốt, cầu ngư, cầu hồn. Tuy nhiên, ngôn từ bả trạo có đổi khác theo vùng miền, mỗi địa phương có sửa đổi, bổ sung, thêm bớt khác nhau.
Tác giả Nguyễn Thành Lợi trong công trình nghiên cứu về Giao lưu văn hóa Việt – Chăm - nhìn từ tục thờ cá Ông đã ngờ rằng hát Bả trạo là diễn xướng tín ngưỡng mà người Việt đã tiếp thu được từ “Tọ Tăm Mư Tai” của người Chăm. Tọ Tăm Mư Tai là một loại hát đám ma gần với hình thức ngâm, nó không có nhiều làn điệu, đa dạng như hát múa Bả trạo của người Việt hiện đang được lưu giữ từ dải biển miền Trung, từ Thừa Thiên – Huế cho đến Bình Thuận. Làng chài Bình Thái từng là làng chài của người Chăm mà Đại Việt Sử ký toàn thư gọi cả vùng Phước Thuận và Phước Hòa là một thương cảng, quân cảng quan trọng bậc nhất của Vương quốc Chăm Pa trong 5 thế kỷ (938 - 1470).
Như vậy nghệ thuật hát múa Bả trạo cũng có sự tiếp nối, giao thoa văn hóa biển miền Trung và lễ hội Cầu ngư cũng đã có trong các làng biển người Chăm thời kỳ Vương quốc Vijava trên vùng đất Bình Định. Vì vậy, lễ hội Cầu ngư và hát múa Bả trạo ở làng vạn chài Bình Thái đã có từ trước thời cụ Nguyễn Diêu, tức là từ thời khởi dựng lăng ở thế kỷ XVII; và qua thời gian đã có sự biến đổi, tiếp nối với dòng văn hóa Việt.
Vạn chài Bình Thái đã lưu giữ nghệ thuật hát múa Bả trạo có từ thế kỷ XVII và tồn tại dị bản hát múa Bả trạo, mang bóng dáng của một thể loại hát bội cổ điển ở Bình Định. Trong toàn bộ vở Tuồng hát múa bả trạo ở Phước Thuận có dùng các làn điệu hát Nam Xuân, Nam Ai, Nói lối, ngâm xướng, hò Bài chòi… Còn động tác trong hát múa bả trạo mang nặng tính thực hành, gắn với thực tế cuộc sống hơn. Những điểm khác biệt giữa hát Bả trạo và hát Bội như là động tác chèo thuyền, ở hát Bội chỉ là điệu bộ, còn hát Bả trạo thì có chèo thật.
Một đội hát múa Bả trạo ở Phước Thuận thường có 24 nhân vật, gồm tổng sanh, tổng lái, tổng cờ, tổng thương, 2 bồ hổ, 2 lồng đèn và 16 trạo phách. Tổng sanh (có nơi gọi là tổng mũi, tổng tiền) là nhân vật điều kiển vở diễn hát múa Bả trạo. Nhân vật tổng lái có nơi gọi là tổng hậu. Nhân vật tổng cờ rất nhiều địa phương tỉnh khác hầu như không có. Tổng thương, có nơi gọi là tổng trung hoặc tổng khoang. Hai nhân vật bồ hổ được xem như hai đội trưởng của hai đội chèo thuyền. Hai lồng đèn được xem như nhân vật đóng vai đội phó của đội chèo. Mười sáu trạo phách được chia làm hai đội trạo theo hai bồ hổ và lồng đèn.
Trang phục của đội hát múa bả trạo thể hiện đơn giản. Tổng sanh mặc quần trắng, áo dài màu da cam, chân mang giày, đầu đội khăn đóng, hai tay cầm sanh. Cặp sanh là hai thanh gỗ, gõ vào nhau thành tiếng để cắt nhịp đoạn hát. Tổng lái mặc giáp trụ màu đỏ, tướng võ, có râu, đóng khăn choàng đầu và có một rẻo vải nhỏ quấn ngang đầu, tay cầm chèo, điều khiển hướng đi của thuyền. Tổng cờ là nhân vật biểu diễn võ thuật trong suốt vở diễn.
Tổng thương mặc áo giáp võ tướng đóng vai trung, đội khăn choàng đầu, có rẻo vải nhỏ quấn ngang đầu, chân mang giày, được trang bị tay cầm cần câu và gàu tát nước. Nhân vật này có nhiệm vụ như hậu cần, lo liệu ăn uống, đi chợ, trông coi thuyền lúc trạo phách ngủ yên. Nhân vật bồ hổ cũng mặc xiêm giáp tướng võ, đầu đội nón chóp bạc, đeo gươm, mang giày. Nhân vật lồng đèn thì cột khăn trên đầu, tay cầm lồng đèn. Các con trạo mặc quần áo màu đen, đầu đội khăn trùm, có mảnh vải nhỏ quấn ngang, tay cầm mái chèo. Tất cả đội hát múa Bả trạo đều có thắt lưng đỏ, cổ tay buộc dải vải đỏ bằng hai ngón tay.
Vở tuồng hát múa Bả trạo ở làng Bình Thái dài khoảng 70 phút, được tổng sanh và tổng lái phối hợp với nhau một cách nhịp nhàng, rộn ràng để chỉ huy đội hát múa Bả trạo, các trạo phách phụ họa theo, tổng cờ làm động tác hề, nói những lời hài hước để gây cười. Khi các thủ tục tế lễ vừa dứt, đến chương trình hát múa Bả trạo, tổng lái ra trước rồi đến hai bồ hổ, hai lồng đèn, tổng cờ, tổng thương. Trước khi biểu diễn, đội hát múa Bả trạo biểu thị nghi lễ trình thần một cách trang trọng bằng cách cất mái chèo cúi lạy và tiến vào vị trí đội hình.
Tổng lái đứng ở giữa, bên trái là tổng thương, một lồng đèn, một bồ hổ; bên phải là tổng cờ, một lồng đèn, một bồ hổ. Tổng lái cất tiếng hát trước để cầu chúc buổi lễ, tay cầm lái để lái thuyền: “Bả trạo/ Nhứt nhơn nhứt trạo đăng chúc huy hoàng…”. Tiếp đến là tổng sanh, hai tay cầm cặp sanh gõ nhịp báo hiệu 16 trạo phách từ hậu trường vào, chia làm hai đội đứng thành hai hàng. Những con trạo mang số 1, 3, 5, 7, 9, 11, 13, 15 đứng một hàng, 2, 4, 6, 8, 10, 12, 14, 16 đứng thành một hàng. Hai hàng được bố trí thành chiếc thuyền, lúc này đội hình thay đổi, đứng giữa là tổng sanh, hai bên là hai bồ hổ, sau hai bồ hổ là hai đội trạo đứng thành hàng, cuối hàng là hai lồng đèn. Khoảng giữa hai đội trạo, phía sau tổng sanh là tổng thương và tổng cờ đứng ngang hàng nhau và luôn đi kèm bên nhau. Đứng sau tổng thương và tổng cờ là tổng lái, đứng ở mũi thuyền làm động tác lái thuyền.
Hát múa Bả trạo có xướng và xô, động tác múa hát nhuần nhuyễn; tổng sanh, tổng lái, tổng thương thì xướng và bắt bài theo các điệu hò, khi thúc giục lúc nhịp nhàng chen lẫn những làn điệu dân gian, ngâm phối hợp với giọng hát Bội. Các trạo phách hoặc xô hoặc lặp lại một khúc xướng của các tổng. Khi các trạo phách ở hậu trường thì mái chèo vác trên vai, khi chuyển động vào sân diễn thì mái chèo chỉ lên trời; khi vào hàng theo lệnh tổng sanh hạ chèo, mái chèo chấm đất, hai tay cầm chèo, tay trước cao, tay sau thấp hơn.
Trong suốt vở diễn, tổng sanh và tổng lái hát đối đáp với nhau khá nhiều trường đoạn. Khi đêm về khuya, các trạo phách nghỉ chèo và bắt đầu ngủ say, tổng lái sai tổng thương ra trông coi thuyền, tát nước trong khoang thuyền ra biển cả, xem xét thời tiết. Tổng thương vừa xem thời tiết vừa cầm gàu tát nước, xem trời mây mà than vãn cho số phận của mình: “Giờ bạn lái tạm nghỉ rồi còn một mình tôi đây/ Phú giang hồ bầu bạn miền hải thú ngao du tuy tôi không tài bì…”.
Khi thấy trời đã bắt đầu trở về giông tố vào thưa với tổng lái xin nhổ neo, quay thuyền trở lại đi tìm chỗ ẩn nấp. Cử chỉ của đội trạo thể hiện quay thuyền là quay lưng lại phía sau. Lúc này tổng lái ra lệnh cho 16 trạo phách xếp thành 4 hàng lạy Nam Hải Thần Ngư ba lần rồi hạ. Kết thúc vở diễn, trạo phách đi vào hậu trường trước, tiếp đến là lồng đèn, bồ hổ, tổng thương, tổng cờ và tổng lái đi sau cùng.
Ngoài ý nghĩa biểu dương công đức cũng như tỏ lòng thương tiếc của ngư dân đối với Nam Hải Thần Ngư (cá Ông), nghệ thuật hát múa Bả trạo còn mang một nội dung khác không kém phần quan trọng, là thể hiện những tâm tư, tình cảm của ngư dân trước cuộc sống đầy thách thức của biển cả. Hát múa Bả trạo là sự ước vọng một cuộc sống an lành, no đủ cho cộng đồng cư dân miền biển.
Lễ hội Cầu ngư làng Bình Thái là truyền thống tín ngưỡng văn hóa trong sáng, lành mạnh, có tác dụng tinh thần rất lớn đối với quần chúng nhân dân. Hoạt động này không chỉ là sự ngưỡng vọng, tôn kính thần linh mà còn gắn liền với sự hưng thịnh của cả làng chài, cầu mong mùa đánh bắt bội thu, thuyền bè đi khơi về lộng an toàn…
Trong tâm linh của người dân làng biển, “Ông Nam Hải” không chỉ là tôn thần cứu vớt tai nạn cho người dân hành nghề trên biển mà còn phò trợ cho trời yên biển lặng, bà con làm ăn may mắn, phát đạt. “Ông” là tiếng gọi tôn kính của ngư dân dành riêng cho cá voi, loài cá thường giúp họ vượt qua tai nạn khi lênh đênh trên biển cả. Tuy nhiên, trong lời văn tế, người ta không chỉ cúng cá Ông mà còn cung thỉnh tất cả các vị thần linh khác.
Lễ hội Cầu ngư Bình Thái còn là một dịp cho những hình thức nghệ thuật như hát Tuồng, hát Bả trạo có thêm đất diễn, góp phần bảo tồn và phát huy nền văn hoá mang bản sắc dân tộc không bị mai một. Qua đó giúp cho chúng ta hiểu được những điều hay, cảm được những nét đẹp nhân văn của người xưa, ghi nhận sự chung lưng đấu cật, tính thơm thảo, sẻ chia của người dân miền biển…
Bài và ảnh: NGUYỄN TẤN TUẤN
Nguồn: Tạp chí VHNT số 597, tháng 2-2025