• Văn hóa > Di sản

Biến đổi văn hóa vật thể của người Tày ở huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên hiện nay

Hiện nay, ở Định Hóa có 43.367 người Tày chiếm 49,2% dân số toàn huyện. Văn hóa vật thể của người Tày huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên là thành tố quan trọng tạo nên bản sắc văn hóa tộc người. Trong quá trình vận động, tiếp biến văn hóa Tày, các giá trị văn hóa vật thể truyền thống không nằm ngoài quy luật đó. Nhận diện biến đổi văn hóa Tày nói chung và văn hóa vật thể nói riêng là xác lập luận cứ khoa học, góp phần xây dựng, phát triển văn hóa trong phát triển kinh tế, xã hội của địa phương và quốc gia hiện nay.

Bảo tồn, phát huy nghệ thuật xòe Thái trước sự biến đổi về không gian, môi trường trình diễn

Xòe Thái là một loại hình nghệ thuật trình diễn dân gian độc đáo của đồng bào dân tộc Thái ở vùng Tây Bắc nói chung, tỉnh Lai Châu nói riêng. Nghệ thuật múa xòe đã trở thành nếp sinh hoạt văn hóa không thể thiếu của đồng bào dân tộc Thái ở tỉnh Lai Châu. Vấn đề di dân để xây dựng thủy điện Lai Châu, Huội Quảng, Bản Chát góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội địa phương, nhưng nó cũng đặt ra thách thức không nhỏ trong việc bảo tồn giá trị di sản văn hóa. Khi môi trường và không gian sống bị thay đổi sẽ tác động tiêu cực đến phong tục, tập quán, tín ngưỡng gắn với nghệ thuật dân vũ truyền thống. Đây là một trong những nguyên nhân làm mai một, biến dạng nhiều loại hình di sản văn hóa phi vật thể, trong đó có nghệ thuật xòe Thái.

Hoàng Hoa Thám dưới góc nhìn văn hóa

Anh hùng dân tộc Hoàng Hoa Thám được lịch sử và giới nghiên cứu đề cập đến với vai trò là người thủ lĩnh, linh hồn của cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Ông là một anh hùng quân sự kiệt xuất của dân tộc cuối TK XIX đầu TK XX. Những nghiên cứu về Hoàng Hoa Thám dưới góc nhìn văn hóa còn khá khiêm tốn, trong khi những đóng góp của ông với nền văn hóa dân tộc không hề nhỏ bé. Di sản văn hóa mà ông để lại cho hậu thế là tư tưởng độc lập dân tộc, là thái độ ứng xử với văn hóa truyền thống và các di sản (lễ hội, di tích) gắn với cuộc khởi nghĩa Yên Thế.

Đôi nét về lễ Bươn Xao của người Thái (nhóm Tày Mường) ở tỉnh Nghệ An

Người Thái ở Nghệ An có 4 nhóm địa phương: Tày Mường (còn gọi là Tày Xiềng, Hàng Tổng, Tày Dọ); Tày Thanh (còn gọi là Man Thanh, Tày Nhái); Tày Mười và Tày Khăng. Trong đó, nhóm Tày Mường mang nét đặc trưng riêng trong văn hóa tinh thần nói chung, trong đời sống tâm linh của cộng đồng nói riêng lại khá rõ rệt, mà lễ Bươn Xao là một trong những ví dụ khá điển hình. Đây là lễ cúng liên quan đến tập quán pháp của dòng họ (Đẳm, Xính, Chao) vẫn tồn tại phổ biến từ trước tới nay và được duy trì thực hành trong đời sống tâm linh của cộng đồng nhóm Tày Mường ở miền Tây Nghệ An. Trên cơ sở các tài liệu ít ỏi đã công bố, kết hợp với nguồn tư liệu mà chúng tôi thu thập được tại 6 địa phương người Thái (nhóm Tày Mường) gồm: Tân Kỳ, Anh Sơn, Con Cuông, Tương Dương, Qùy Hợp và Qùy Châu, bài viết xin làm rõ thêm đôi nét về nghi lễ Bươn Xao.

Lễ hội thờ nhân vật lịch sử, trường hợp lễ hội Gò Tháp, tỉnh Đồng Tháp

Trong các di tích quốc gia đặc biệt ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay, Gò Tháp là một di tích quốc gia đặc biệt nằm trên địa bàn hai xã Mỹ Hóa và Tân Triều thuộc huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp, nơi đây có cả thành tố di sản vật thể và di sản văn hóa phi vật thể. Thành tố di sản văn hóa vật thể của Gò Tháp đã được biết đến từ những năm cuối TK XIX, những thập niên đầu TK XX bởi một số nhà khảo cổ học người Pháp. Sau năm 1975, các nhà khảo cổ học của nước ta đã tiến hành khai quật nhiều lần và đi tới nhận định Gò Tháp là di tích gắn bó với vương quốc Phù Nam từ hàng ngàn năm trước. Cùng với di tích, Gò Tháp có di sản văn hóa phi vật thể là lễ hội rằm tháng 3 âm lịch với nhân vật thờ là Bà Chúa Xứ và lễ hội ngày 14, 15 tháng 11 âm lịch thờ hai nhân vật lịch sử: Đốc binh Nguyễn Tấn Kiều và Thiên hộ Võ Duy Dương. Đã có một số công trình đề cập tới nội dung các lễ hội này ở nhiều khía cạnh, trong bài viết này, chúng tôi tiếp cận lễ hội Gò Tháp từ tín ngưỡng nhân vật lịch sử.

Vai trò của vốn xã hội trong việc hình thành và bảo lưu lễ hội truyền thống - nhìn từ lễ rước y trang nữ thần của người Chăm và Raglai (Ninh Thuận)

Người Chăm Bàlamôn và người Raglai Nam mặc dù có nhiều sự khác biệt về địa vực cũng như trình độ kinh tế, nhưng họ có một mối ràng buộc sâu sắc, đó là cùng nhau tổ chức lễ rước y trang nữ thần trong lễ hội kate. Do nhiều yếu tố khách quan, nên ngày nay, mặc dù lễ hội kate đã bị rút ngắn lại và phạm vi tổ chức cũng hẹp hơn, nhưng lễ rước xiêm y Thánh mẫu từ Phước Hà (địa bàn sinh sống của người Raglai) về Hữu Đức (địa bàn sinh sống của người Chăm) vẫn là một nghi lễ vô cùng quan trọng, khởi đầu cho mùa lễ hội kate. Để nhìn nhận sâu sắc và toàn diện hơn về nghi lễ độc đáo của hai cộng đồng trên, chúng tôi vận dụng lý thuyết nghiên cứu về vốn xã hội của một số học giả trong và ngoài nước, hy vọng có thể đưa ra những đánh giá và phân tích nhiều chiều, chân thực về cộng đồng Raglai, Chăm cũng như những mối liên hệ và ràng buộc chặt chẽ của họ.

Tiếp cận văn hóa Lạng Sơn từ chỉ báo phát triển bền vững văn hóa

Trong tàng thư của thế giới, hiện nay có hàng chục định nghĩa về phát triển bền vững (PTBV) đang được lưu hành. Trong đó, định nghĩa của Ủy ban Brundtland (1987) được coi là khái niệm khung mà các nước, các tổ chức căn cứ vào đó, kết hợp với bối cảnh kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị, môi trường cụ thể của nước mình để đưa ra giới thuyết riêng về PTBV. Tuy nhiên, trong bài viết, chúng tôi chỉ quan tâm đến PTBV văn hóa từ chiều cạnh các chỉ báo PTBV.

Tín ngưỡng thờ Mẫu qua góc nhìn văn hóa

Tín ngưỡng thờ Mẫu là tín ngưỡng nội sinh của dân tộc, thể hiện sâu sắc tâm tư, tình cảm, đạo đức, trí tuệ của người Việt, thỏa mãn tâm lý của con người, cầu mong về một cuộc sống bình yên, no đủ. Trải qua quá trình hình thành và phát triển, tín ngưỡng thờ Mẫu thể hiện khả năng tích hợp văn hóa, tôn giáo cao, tạo ra một hệ thống điện thần đa màu sắc, mang đậm bản sắc riêng của người Việt. Bài viết tập trung nghiên cứu những giá trị văn hóa, giá trị nhân văn cơ bản của tín ngưỡng thờ Mẫu ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ.

Bảo tồn di sản văn hóa Kinh Bắc trong hội nhập và phát triển

Kinh Bắc là vùng đất có nền văn hiến lâu đời, gồm hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang. Nơi đây có nhiều di sản văn hóa vật thể đặc sắc như: chùa Dâu, chùa Bút tháp, đền Vua Bà, đền Đô, văn miếu Bắc Ninh…; nhiều di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu như: nghệ thuật ca trù, tuồng, chèo… Do nằm ngay cửa ngõ thủ đô nên nơi đây đã sớm chuyển mình và phát triển theo xu hướng của thời đại, điều đó đặt ra nhiều vấn đề trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa.