• Văn hóa > Di sản

Tiếp biến văn hóa trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ ở Thành phố Hồ Chí Minh

Ra đời trên cơ sở của tục thờ nữ thần, tín ngưỡng thờ Mẫu Tam, Tứ phủ đã trở thành một loại hình tín ngưỡng độc đáo mang những nét đặc sắc riêng của văn hóa Việt Nam. Từ cái nôi đồng bằng Bắc Bộ, tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ từ rất sớm đã có mặt ở Trung Bộ và Nam Bộ. Nếu tính theo thời gian xây dựng có thể thấy tín ngưỡng thờ Mẫu Tam, Tứ phủ có mặt ở TP.HCM từ đầu TK XIX (đình Bình Hòa, quận Bình Thạnh). Trong quá trình hình thành và phát triển trên vùng đất mới, người Việt Bắc Bộ ở TP.HCM đã nhanh chóng thích nghi, tiếp xúc và biến đổi tín ngưỡng của mình cho phù hợp với văn hóa bản địa. Điều này đã tạo ra một nét riêng độc đáo cho tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ ở TP.HCM so với Bắc Bộ và Trung Bộ. Bài viết tập trung vào quá trình tiếp biến văn hóa trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tam, Tứ phủ của người Việt Bắc Bộ ở TP.HCM, trong đó tập trung vào việc xây dựng, bài trí đền, điện thờ Mẫu Tam, Tứ phủ và trong hoạt động thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu.

Hoạt động quản lý văn hóa đối với di sản văn hóa phi vật thể (trường hợp thực hành thờ Mẫu Tam phủ của người Việt)

Di sản văn hóa phi vật thể (DSVHPVT) là những biểu đạt văn hóa không chạm vào được, mà chỉ có thể cảm nhận thông qua thực hành. Vấn đề quản lý nhằm bảo vệ DSVHPVT có hiệu quả với sự tham gia chủ động, tích cực của cộng đồng được chú trọng từ khi Công ước 2003 về bảo vệ DSVHPVT ra đời. Nói đến quản lý di sản, chúng ta thường đề cập tới quản lý nhà nước, trong khi đó vai trò của cộng đồng ít được bàn đến. Quản lý văn hóa (QLVH) được xác định rộng hơn, bao trùm quản lý nhà nước về văn hóa với sự tham gia của toàn thể xã hội, các bên liên quan, cộng đồng cá nhân. Bài viết tập trung nhận diện một số hoạt động QLVH với di sản văn hóa phi vật thể thực hành thờ Mẫu Tam phủ của người Việt dựa trên những điều khoản về quản lý của Luật Di sản Văn hóa (DSVH) và sự tham gia của cộng đồng, chủ thể của di sản và cơ sở thực trạng quản lý của di sản này trong thực tiễn ngày nay.

Công tác bảo tồn và phát huy hát xoan làng Phù Đức hiện nay

Làng Phù Đức thuộc xã Kim Đức, huyện Phù Ninh, nay thuộc thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Nơi đây được biết đến là một trong bốn phường xoan gốc, nơi khởi thủy của loại hình dân ca độc đáo này. Trải qua thời gian, hát xoan đã trở thành một món ăn tinh thần không thể thiếu của người dân vùng đất Tổ. Trong bối cảnh hiện nay, để bảo tồn và phát huy giá trị của hát xoan, nghệ nhân các phường xoan đang tích cực biểu diễn và truyền dạy những câu hát bình dị nhưng có sức sống bền bỉ và sự lan tỏa mãnh liệt.

Công tác quản lý di tích ở Hiệp Hòa (Bắc Giang)

Huyện Hiệp Hòa là nơi có vị trí quan trọng cho các hoạt động quốc phòng, an ninh, là cửa ngõ, phên dậu án ngữ hai vùng chiến lược trọng yếu giữa châu thổ sông Hồng với vùng núi Việt Bắc, là nơi thuận lợi thông thương kinh tế - xã hội. Đây là địa phương có bề dày truyền thống lịch sử, văn hóa. Cùng với quá trình hình thành và phát triển, trên địa bàn huyện hiện đang lưu giữ một kho tàng di sản văn hóa vật thể và phi vật thể đa dạng như các đình, chùa, lăng tẩm, miếu nghè, các lễ hội văn hóa dân gian...

Thực trạng công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa ở Việt Nam hiện nay

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” (1). Nguồn lực nói đến ở đây là nguồn lực tinh thần, tức các giá trị văn hóa truyền thống được kết tinh, phản ánh trong di sản văn hóa. Với ý nghĩa đó, chúng ta có thể nhận thấy vai trò to lớn của di sản văn hóa trong quá trình phát triển đất nước hiện nay.

Lê hội làng Đồng Kỵ xưa và nay

Làng Đồng Kỵ ngày nay là phường Đồng Kỵ thuộc thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, nổi tiếng là một trong bốn làng năng động, giỏi trong làm ăn kinh tế, được khẳng định qua câu tục ngữ: “Thứ nhất Đồng Kỵ, thứ nhì Đông Khang, thứ ba Đình Bảng, thứ tư Mão Điền”. Lễ hội làng Đồng Kỵ diễn ra từ ngày mồng 4 đến mồng 6 tháng Giêng, trong không gian làng với quần thể các di tích đình, đền và chùa làng. Đây là dịp để dân làng tưởng nhớ công ơn vị Thành Hoàng làng Thiên Cương Đại Vương - vị thần có công huy động nhân dân theo giúp vua Hùng thứ Sáu đánh giặc. Trải qua nhiều hăng trầm của lịch sử, hội làng Đồng Kỵ ngày nay cũng có nhiều biến đổi, tuy nhiên, nhiều cổ tục độc đáo vẫn được duy trì, làm nên sắc thái riêng của lễ hội này.

Các di tích thờ Tứ pháp của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ

Thờ Tứ Pháp là tín ngưỡng độc đáo, chiếm vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa của người Việt ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Trải qua những thăng trầm của lịch sử, tín ngưỡng thờ Tứ Pháp luôn trường tồn với thời gian bởi những dấu ấn văn hóa và giá trị riêng, từ những tư liệu ngữ văn dân gian như truyền thuyết, truyện kể, thơ ca dân gian… cho đến hệ thống di tích thờ tự và các nghi thức, nghi lễ. Trong đó, minh chứng rõ nhất cho thấy sự tồn tại của tín ngưỡng này trong đời sống của người Việt từ xưa đến nay là sự hiện diện của các di tích thờ Tứ Pháp. Bài viết khảo sát, phân tích về số lượng, sự phân bố di tích, đặc điểm loại hình và bố trí điện thờ Tứ Pháp…, từ đó thấy được vai trò, sự ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Tứ Pháp trong đời sống văn hóa của người Việt, góp phần giữ gìn những giá trị lịch sử văn hóa mà cha ông để lại.

Tìm hiểu lễ hội đền Nguyễn Xí

Giai đoạn đầu, lễ hội đền thờ Nguyễn Xí - Cương Quốc công từ, mang dấu ấn văn hóa dòng họ. Về sau, trong quá trình giao lưu, tiếp biến giữa văn hóa dòng họ (đóng vai trò hạt nhân) với văn hóa cộng đồng làng - xã - vùng - miền, lễ hội đền thờ Nguyễn Xí phát triển thành một lễ hội mang màu sắc văn hóa xứ Nghệ.

Văn hóa thổ cẩm trong đời sống tộc người vùng trung du và miền núi phía Bắc

Văn hóa thổ cẩm truyền thống đã và đang góp phần làm giàu thêm bản sắc văn hóa của đồng bào trung du và miền núi phía Bắc. Bằng đôi bàn tay khéo léo và sự cần cù, nhiều sản phẩm thổ cẩm độc đáo đã và đang được các tộc người sáng tạo phục vụ nhu cầu của bản thân và cộng đồng. Trải qua thăng trầm của thời gian, các tộc người không chỉ có ý thức gìn giữ nghề cổ truyền vốn có mà còn tiếp tục nỗ lực học hỏi, cải tiến kỹ thuật để có thêm nhiều sản phẩm mới phù hợp với nhu cầu của xã hội hiện đại, đưa danh tiếng của văn hóa thổ cẩm nơi đây đến với các vùng miền khác trong cả nước. Tuy nhiên, trước những đổi thay của đời sống xã hội, bên cạnh những điều kiện thuận lợi để khôi phục và phát triển, nghề dệt thổ cẩm cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức trong việc gìn giữ các giá trị văn hóa truyền thống.