• Văn hóa > Đương đại

Những vấn đề đặt ra trong công tác truyền thông về di sản văn hóa

Ngày 18-11-2019, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật phối hợp với Ban quản lý Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam, tổ chức Tọa đàm Truyền thông với bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa dân tộc. Sự kiện nằm trong khuôn khổ hoạt động của Tuần Đại đoàn kết các dân tộc - Di sản văn hóa Việt Nam năm 2019 (tại Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội). Tham gia chủ trì tọa đàm có bà Trương Thị Ngọc Ánh - Phó Chủ tịch Ủy ban T.Ư Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, ông Trịnh Ngọc Chung - Phó Trưởng ban phụ trách Ban quản lý (BQL) Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam, ông Hoàng Hà - Quyền Tổng Biên tập Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật.

Báo chí đồng hành với sự nghiệp bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa

Nước ta hiện nay có khoảng 120 triệu thuê bao điện thoại di động, trong đó, khoảng 85% sử dụng điện thoại thông minh, đứng đầu trong khu vực Đông Nam Á; Internet rất phát triển, cả ở thành thị, nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Có tới 65 triệu người sử dụng internet và 58 triệu tài khoản facebook, trong đó nhiều người đã lập những hội, nhóm, cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống. Họ dễ dàng sử dụng internet để đọc báo, tìm kiếm thông tin, tham gia mạng xã hội hàng ngày, hàng giờ. Trong đó, có những thông tin liên quan đến bảo tồn văn hóa dân tộc. Điều này đặt ra câu hỏi: vậy chúng ta cần làm gì để truyền thông tăng hiệu quả đối với việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0?.

Nâng cao văn hóa pháp luật của cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn hiện nay

Vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta đã và đang đặt ra nhiều nội dung quan trọng và cấp thiết. Trong đó, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn có ý thức thượng tôn pháp luật, sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật là nội dung quan trọng hàng đầu. Vì vậy, nâng cao văn hóa pháp luật (VHPL) của cán bộ, công chức ở các xã, phường, thị trấn là một vấn đề cấp bách và có ý nghĩa quan trọng góp phần xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Những yếu tố ảnh hưởng đến văn hóa cộng đồng các tộc người Lào dọc biên giới Lào - Việt Nam

Văn hóa truyền thống được hình thành trong suốt chiều dài lịch sử và trở thành di sản quý giá của mỗi tộc người, góp phần làm nên sự phong phú, đa dạng và thống nhất của văn hóa Lào (1). Để phát triển kinh tế - xã hội đất nước thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước Lào quan tâm giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc, đề ra nhiều chính sách phát triển kinh tế, văn hóa phù hợp, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào. Từ thực tiễn nhận thấy, xu hướng toàn cầu hóa, sự phát triển kinh tế, quá trình di dân, sự chênh lệch về hưởng thụ văn hóa và công tác quản lý là những yếu tố có ảnh hưởng lớn đến văn hóa các tộc người khu vực biên giới Lào - Việt Nam.

Sự biến đổi phương thức mưu sinh của người dân Mỹ Hào, Hưng Yên trong quá trình đô thị hóa

Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa đã và đang lan tỏa, kéo theo sự chuyển đổi từ kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp. Thị xã Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên không nằm ngoài sự biến đổi đó: họ đang chuyển đổi từ kinh tế thuần nông, sang phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Thành tựu phát triển kinh tế ở Mỹ Hào đã góp phần không nhỏ trong việc đưa tỉnh Hưng Yên gia nhập vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Trong bối cảnh ấy, các phương thức mưu sinh mới xuất hiện, phương thức mưu sinh truyền thống phát triển phù hợp với điều kiện và nhu cầu thực tế.

Vai trò của bộ máy tra cứu tin trong công tác đào tạo theo phương thức tín chỉ

  Đào tạo theo tín chỉ là phương thức đặt người học vào vị trí trung tâm của quá trình đào tạo. Người học được rèn thói quen tự học, tự khám phá kiến thức, có kỹ năng giải quyết vấn đề, chủ động thời gian hoàn thành một môn học, một chương trình đào tạo, khắc phục được việc học thụ động, thiếu tư duy phê phán. Tuy nhiên, để phương thức đào tạo này đạt hiệu quả cao đòi hỏi người học phải được tiếp cận và khai thác các nguồn thông tin một cách dễ dàng. Bộ máy tra cứu tin là phương tiện, công cụ giúp người học tìm kiếm và lựa chọn những thông tin phù hợp. Nó là cầu nối giữa người dùng tin với nguồn lực thông tin. Bộ máy tra cứu tin là một trong những nhân tố quan trọng góp phần quyết định hiệu quả của công tác thư viện, đặc biệt là công tác phục vụ tra tìm thông tin cho người học.

Xây dựng văn hóa nông thôn mới ở huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang

  Việt Yên là huyện trung du miền núi tỉnh Bắc Giang, cách Hà Nội 40 km, có truyền thống văn hóa lâu đời. Trong tiến trình xây dựng nông thôn mới (NTM) theo Chương trình Mục tiêu quốc gia, vấn đề xây dựng văn hóa NTM, đặc biệt là tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, nhân dân ở huyện về xây dựng văn hóa NTM là việc làm cần thiết nhằm kịp thời đưa những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào đời sống nhân dân (1).

Mạng xã hội và sự thay đổi hoạt động sống của giới trẻ hiện nay

   Khi những người dùng internet, đặc biệt là thanh, thiếu niên (giới trẻ), bắt đầu tìm kiếm một nơi thỏa mãn các nhu cầu về thông tin, giải trí, kết nối, thì mạng xã hội (MXH) ra đời, đáp ứng một cách gần như hoàn hảo những nhu cầu đó. Hiện nay, các MXH trên thế giới, phổ biến nhất là Facebook, YouTube, Instagram, Twitter, MySpace…, đều có thành công nhất định dựa trên sự phù hợp về địa lý, chính trị, văn hóa… của khu vực, quốc gia, vùng miền. Tại Việt Nam cũng đã xuất hiện nhiều MXH như ZingMe, Gov.vn, YuMe, Tamtay... nỗ lực liên kết người dùng bằng những đặc trưng riêng. Có thể nói, MXH đã trở thành một phần quan trọng, có tác động nhất định làm thay đổi thói quen cũ và hình thành những biểu hiện mới của tư duy, lối sống, văn hóa… ở một bộ phận khá lớn những người sử dụng là giới trẻ.

Không ngừng củng cố quan hệ hợp tác Việt - Lào về văn hóa

   ​​​​​​​Việt Nam - Lào là hai nước láng giềng gần gũi trên bán đảo Đông Dương, có truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau lâu đời. Quan hệ đoàn kết đặc biệt này hình thành nên không phải do ý muốn chủ quan của bất kỳ bên nào, cũng không phải là một hiện tượng nhất thời, mà bắt nguồn từ vị trí địa - chiến lược của hai nước, từ bản chất nhân văn, nương tựa lẫn nhau của hai dân tộc, được nâng lên thành quan hệ đặc biệt từ khi Hồ Chí Minh thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930. Những nét tương đồng về văn hóa giữa hai dân tộc đã góp phần xây đắp nên tình đoàn kết keo sơn, thủy chung, sắt son Việt - Lào, mối quan hệ đặc biệt hữu nghị, trong sáng, mẫu mực tạo thành truyền thống quý báu, một sức mạnh vô địch, là nhân tố tạo nên thắng lợi của cách mạng hai nước.