• Văn hóa > Cổ truyền

ĐẶC SẮC TRONG ÁNG MO ĐẺ ĐẤT ĐẺ NƯỚC CỦA NGƯỜI MƯỜNG

Trong 54 dân tộc anh em cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam, người Mường có số dân đông thứ nhì sau người Kinh và là dân tộc có nền văn hóa riêng rất giàu bản sắc. Một trong những biểu hiện của nền văn hóa đặc sắc ấy phải kể tới kho tàng mo Mường gắn với phong tục lễ tang. Với quan niệm sống chết là quy luật, song, người ta khi chết đi vẫn tiếp tục sống ở thế giới khác. Nếu được gia đình chuẩn bị chu đáo nghĩa là được mo đầy đủ thì hồn ma càng sớm được đến mường Trời. Mo lễ tang gồm 5 phần dài tới vài vạn câu. Nếu thực hiện đầy đủ nghi lễ này phải kéo dài tới 12 đêm. Trong 5 phần của mo lễ tang thì phần Đẻ đất đẻ nước (Te tấc te tác) còn gọi là mo trêu có nội dung độc đáo và đặc sắc nhất (1).

NÉT ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA TRONG TRUYỆN THƠ NÔM TÀY

Trong kho tàng văn học dân gian Tày, truyện thơ Nôm là thể loại đạt được nhiều thành tựu tiêu biểu. Theo thống kê của Vũ Anh Tuấn: “Gần 60 pho sách truyện Nôm Tày đã được chép thành văn bản. Đó là chưa kể đến hàng trăm dị bản truyền miệng trong dân gian, hàng chục văn bản Nôm Tày mà thỉnh thoảng lại có văn bản được sưu tầm công bố tư liệu bổ sung” (1). Từ năm 2004 đến nay đã có hơn 60 tác phẩm, trong số đó có nhiều tác phẩm đã được sưu tầm, phiên âm Latin hóa, dịch ra tiếng Việt, rồi xuất bản, công bố.

LỄ HỘI YÊN THẾ, TỪ HOÀNG HOA THÁM VÀ DÀNH CHO HOÀNG HOA THÁM

Lễ hội Yên Thế xuất hiện khá muộn và gắn với nhân vật lịch sử có thực là Hoàng Hoa Thám. Sự nghiệp chống thực dân Pháp suốt gần 30 năm xung quanh núi rừng Yên Thế của vị thủ lĩnh Đề Thám không chỉ để lại một chiến tích quân sự lừng lẫy mà còn để lại những tập tục, di vật có giá trị tín ngưỡng và lịch sử làm cơ sở cho việc cộng đồng duy trì và tôn vinh thành một hệ thống di sản tâm linh, văn hóa cấp quốc gia. Nói cách khác, lễ hội Yên Thế chính là nơi phản ánh rõ nhất quá trình ký ức cộng đồng tiếp nhận, lưu giữ hình ảnh của Đề Thám.

ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA XÃ HỘI CỦA NGƯỜI SÁN DÌU Ở VÙNG ĐỆM VƯỜN QUỐC GIA TAM ĐẢO

Vùng đệm vườn quốc gia Tam Đảo gồm 23 xã, thị trấn thuộc 4 huyện của 3 tỉnh Vĩnh Phúc, Thái Nguyên và Tuyên Quang. Trong đó có 6 xã, 1 thị trấn thuộc huyện Tam Đảo, 1 xã thuộc huyện Bình Xuyên (Vĩnh Phúc), 10 xã thuộc huyện Đại Từ (Thái Nguyên) và 5 xã thuộc huyện Sơn Dương (Tuyên Quang). Người dân sinh sống ở đây từ lâu đời, ngoài dân tộc Kinh còn có 7 dân tộc thiểu số khác: Sán Dìu, Dao, Sán Chỉ, Cao Lan, Tày, Nùng và Hoa, trong đó dân tộc Sán Dìu chiếm tỷ lệ đông nhất. Dân số của người Sán Dìu ở Vĩnh Phúc là 8.412 hộ với 39.539 khẩu (2011), phân bố rải rác ở các huyện Tam Đảo, Lập Thạch, Bình Xuyên và thị xã Phúc Yên, tập trung đông nhất ở xã Đạo Trù, huyện Tam Đảo (chiếm 87,5%), 11/13 thôn có 100% dân cư là người Sán Dìu. Vì vậy, những đặc điểm văn hóa xã hội của cộng đồng người Sán Dìu sẽ được nghiên cứu chủ yếu tại xã Đạo Trù, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc.

CÁC DI TÍCH PHỤNG THỜ DANH Y TUỆ TĨNH Ở HẢI DƯƠNG

Sự nghiệp trước tác của đại danh y Tuệ Tĩnh giữ vị trí quan trọng trong lịch sử y - dược học Việt Nam. Vì vậy, nhân dân đã lập đền thờ ngài ở nhiều nơi trong cả nước, đặc biệt là trên địa bàn huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Trong bốn di tích thờ đại danh y Tuệ Tĩnh có hai nơi thờ chính là đền Xưa (thôn Nghĩa Phú, xã Cẩm Vũ), đền Bia (thôn Văn Thai, xã Cẩm Văn) và hai nơi phối thờ là chùa Giám (xã Cẩm Sơn), Văn miếu Mao Điền (xã Cẩm Điền).

DI TÍCH VÀ LỄ HỘI CHÙA SƠN DƯỢC, THÁI NGUYÊN

Đại Từ được biết đến là một mảnh đất màu mỡ, phì nhiêu với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, trong đó phải kể đến tài nguyên khoáng sản và du lịch dồi dào, có thể phân chia thành các nhóm chính: khoáng sản là nguyên liệu cháy, khoáng sản kim loại, khoáng sản phi kim loại... Ngoài ra, tài nguyên du lịch cũng đem lại nhiều lợi ích kinh tế, góp phần quan trọng cho sự phát triển chung của toàn huyện. Khu du lịch Hồ Núi Cốc nổi tiếng với câu chuyện tình huyền thoại của nàng Công và chàng Cốc làm đắm say lòng người. Đây là điểm du lịch đã thu hút đông đảo hàng vạn du khách trong và ngoài nuớc đến với Đại Từ.

MÔ HÌNH QUẢN LÝ DI SẢN CHÙA VĨNH NGHIÊM, BẮC GIANG

Chùa Vĩnh Nghiêm là nơi phát tích tam tổ phái thiền Trúc Lâm của Phật giáo Việt Nam. “Với sự hiện diện của ba vị sư tổ: Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang, thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã trở thành quốc đạo, một biểu tượng giá trị tinh thần người Việt; chùa Vĩnh Nghiêm trở thành chốn an cư, kiết hạ, giảng kinh, thuyết pháp, là trụ sở chính thức đầu tiên của Phật giáo Việt Nam, là một trong những ngôi tổ đình đầu tiên của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử” (1). Hiện nay chùa còn lưu giữ 3.050 mộc bản có giá trị trên nhiều lĩnh vực: tôn giáo, y học, văn học, triết học, lịch sử, ngôn ngữ..., với 9 đầu sách, là bộ mộc bản gốc của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm được tổ chức vào ngày 14 - 2 âm lịch hàng năm, phản ánh ảnh hưởng to lớn của Phật giáo trong đời sống xã hội, đặc biệt là sự sùng bái của nhân dân địa phương đối với các vị tam tổ.

BÀI TRÍ TRONG DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA XƯA VÀ NAY

Trong vài thập niên gần đây, rất nhiều công trình tôn giáo, tín ngưỡng được tu bổ, phục hồi và xây mới. Nhiều nơi đã, đang xuất hiện những ngôi chùa, pho tượng, hiện vật mới ra đời, thi nhau lập kỷ lục về sự to lớn, hoành tráng, chưa từng có. Hoạt động tại các cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng diễn ra thường xuyên, thu hút ngày càng đông tín đồ, công chúng, nhất là vào các dịp lễ, tết, hội hè. Làn sóng đó khiến ta liên tưởng đến sự phục hưng mạnh mẽ của các cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng trong giai đoạn đất nước hòa bình, thống nhất.

VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI THÁI Ở BÁ THƯỚC - THANH HÓA

Bá Thước là địa bàn cư trú của 3 dân tộc: Kinh, Mường, Thái. Mặc dù không phải là dân tộc có dân số đông nhất, nhưng người Thái đã sinh sống ở đây từ khá sớm. Họ có một vị trí quan trọng, đặc biệt trong việc hình thành các sắc thái văn hóa địa phương, góp phần bổ sung các giá trị văn hóa độc đáo của dân tộc mình vào kho tàng di sản văn hóa xứ Thanh. Bài viết bước đầu, đề cập những giá trị văn hóa truyền thống tiêu biểu của người Thái ở huyện Bá Thước để thấy được những nét chung, những nét riêng chỉ có ở người Thái nơi đây, đồng thời, góp thêm tiếng nói vào sự tôn vinh những giá trị văn hóa tốt đẹp của người Thái ở huyện Bá Thước.

KHÔNG GIAN CÔNG TRONG LÀNG VIỆT TRUYỀN THỐNG

Quá trình cư trú ngàn đời trong không gian làng đã quy định bản chất văn hóa, kinh tế, chính trị, tôn giáocủa người Việt. Làng dù có thể ổn định cấu trúc nhưng vẫn luôn là một thực thể linh động, liên tục biến thiên trong lịch sử. Vì thế, các không gian của làng cũng liên tục đổi thay và việc nắm bắt tính linh động của không gian làng đòi hỏi phải tiếp cận làng như một thực thể sống động. Trong quá trình đô thị hóa, làm biến đổi sâu sắc cấu trúc không gian làng xã từ gốc rễ, người ta khó tránh được lối mã hóa trong nhìn nhận từ ấn tượng, trải nghiệm không gian mang tính kinh nghiệm chủ nghĩa. Việc chọn lựa một làng cụ thể, làng Ngọc Than, quan sát từ cái nhìn không gian, là cách thức để từ đó nghiên cứu tiếp cận không gian làng cổ truyền.

CÁC DI TÍCH THỜ LÝ NAM ĐẾ Ở PHỔ YÊN, THÁI NGUYÊN

Lý Nam Đế là một bậc anh hùng hào kiệt, có công đánh đuổi giặc Lương, khai sinh ra triều đại tiền Lý, lập nên nhà nước Vạn Xuân vào TK VI. Ông được thờ phụng ở nhiều nơi, tập trung ở Thái Nguyên, Thái Bình, Hà Nội. Thôn Cổ Pháp (Phổ Yên, Thái Nguyên), nơi có đền thờ Lý Nam Đế, được các nhà nghiên cứu khẳng định là quê hương ông. Trên cơ sở tư liệu khảo sát, điền dã, bài viết tập trung giới thiệu một số di tích thờ Lý Nam Đế tiêu biểu ở Thái Nguyên; bước đầu chỉ ra đặc điểm, diện mạo, quy mô điện thờ, góp phần làm rõ thêm vị trí, vai trò của ông trong đời sống văn hóa của người dân nơi đây.